Trung Quốc công bố Bảng xếp hạng mười Nhà văn nổi tiếng nhất trong lịch sử

0
699

Trung Quốc công bố Bảng xếp hạng mười Nhà văn nổi tiếng nhất trong lịch sử

Vũ Phong Tạo (Giới thiệu và dịch) – 28-04-2011 01:53:00 PM

VanVN.Net – Báo mạng Trung Quốc www.xooob.com đã giới thiệu những kiểu phân loại văn học từ xưa đến nay ở Trung Quốc và công bố Bảng xếp hạng Mười nhà văn nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc…

 

Văn học cổ đại Trung Quốc phân thành Thi và Văn, văn lại phân thành Vận văn  và Tản văn (văn vần và văn xuôi). Văn học hiện đại nói chung phân thành: Thi ca, Tản văn, Tiểu thuyết, Hý kịch, đồng thời gọi là bốn thể tài lớn của văn học. Thơ trữ tình và Tản văn (gọi chung là cổ văn) của Trung Quốc phát đạt từ rất sớm.

Dưới đây là Bảng xếp hạng Mười nhà văn (văn học gia) nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc:

1- Khuất Nguyên

2- Tư Mã Thiên

3- Đào Uyên Minh

4- Lý Bạch

5- Đỗ Phủ

6- Bạch Cư Dị

7- Hàn Dũ

8- Âu Dương Tu

9- Tô Thức

10- Tào Tuyết Cần

Dưới đây là phần tóm tắt thân thế và sự nghiệp của mười  nhà văn trong bảng xếp hạng này.

1 – Khuất Nguyên

Khuất Nguyên (khoảng năm 340 TCN- khoảng năm 278 TCN), dân tộc Hán, người Đơn Dương, nước Sở thời kỳ Chiến Quốc, họ Khuất, tên Bình, tự Nguyên; Còn tự đặt tên là Chính Tắc, tự Linh Quân. Khuất Nguyên là đời con của Khuất Giả, con trai của Sở Võ Vương  Hùng Thông. Khuất Nguyên nêu cao chủ trương liên minh với nước Tề chống lại nước Tần, đề xướng “mỹ chính” (cai trị đất nước bằng xây dựng tình cảm  yêu cái đẹp).

Khuất Nguyên là một trong những nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa vĩ đại nhất Trung Quốc, cũng là thi nhân lừng danh và nhà chính trị vĩ đại sớm nhất của Trung Quốc. Ông sáng lập thể loại văn học “Sở từ” (cũng chính là sáng lập thể loại văn học “Từ phú”), cũng khai sáng truyền thống “Thảo hương mỹ nhân” (bù nhìn bằng cỏ thơm).

“Ly Tao”, “Cửu Chương”, “Cửu Ca”, “Thiên Vấn” là những tác phẩm tiêu biểu chủ yếu nhất của Khuất Nguyên. “Ly Tao” là bộ thơ trữ tình dài nhất của Trung Quốc. Những tác phẩm của Khuất Nguyên mà hậu thế xem được, đều xuất hiện ở trong bộ sách “Sở Từ” do học giả Lưu Hướng, thời Tây Hán biên tập. Bộ sách này chủ yếu là tác phẩm của Khuất Nguyên, trong đó có một thiên “Ly Tao”, mười một thiên “Cửu Ca” (“Đông Hoàng Thái nhất”, “Vân Trung Quân”, “Tương Quân”, “Tương phu nhân”, “Đại Tư mệnh”, “Thiếu Tư mệnh”, “Đông Quân”, “Hà Bá”, “Sơn Quỷ”, “Quốc Táng”, “Lễ Hồn”), chín thiên “Cửu Chương” (Tịch dũng”, “Thiệp Giang”, “Ai Sính” Trừu tư”, Hoài sa”, “Tư mỹ nhân”, “Tịch vãng nhật”, “Triết tụng”, “Bi hồi phong”), một thiên “Thiên vấn”, v.v…

Hồi trẻ Khuất Nguyên được vua Sở Hoài Vương tín nhiệm, bổ nhiệm làm Tả đồ, Tam lư đại phu, thường xuyên cùng Sở Hoài Vương thương nghị quốc sự, tham gia xây dựng pháp luật, chủ trương pháp luật nghiêm minh, cử tuyển sử dụng hiền tài, cải cách chính trị, liên minh với nước Tề chống lại nước Tần. Đồng thời Khuất Nguyên chủ trì công tác ngoại giao, chủ trương nước Sở liên hiệp với nước Tề, cùng nhau ngăn chặn chống lại nước Tần.

Với sự nỗ lực của Khuất Nguyên, sức mạnh của nước Sở được tăng cường đáng kể. Nhưng do bản thân tính tình cương trực, cộng với sự dèm pha và phỉ báng của người khác, Khuất Nguyên dần dần bị Sở Hoài Vương xa lánh. Năm 305 trước Công nguyên, Khuất Nguyên phản đối Sở Hoài Vương ký liên minh Hoàng Sắc với nước Tần, song nước Sở vẫn triệt để ngả theo nước Tần. Khiến cho Khuất Nguyên bị Sở Hoài Vương trục xuất ra khỏi Sính Đô, lưu lạc ở Hán Bắc.

Trong thời gian Khuất Nguyên bị trục xuất khỏi Sính Đô, lưu đày, Khuất     Nguyên cảm thấy trong lòng u uất, bắt đầu sáng tác văn học, trong tác phẩm tràn đầy nỗi lòng quyến luyến đất nước và phong cảnh nước Sở và nhiệt tình vì dân báo quốc.

Tác phẩm của ông văn tự hoa lệ, tưởng tượng đặc biệt kỳ lạ, tỉ dụ mới mẻ, nội     hàm sâu sắc, trở thành một trong những khởi nguồn của văn học Trung Quốc.

Năm 278 trước Công nguyên, đại tướng Bạch Khởi nước Tần chỉ huy đại quân tiến đánh phía nam, công phá Sính Đô. Trong lòng tuyệt vọng và bi phẫn, Khuất     Nguyên đã ôm tảng đá lớn nhảy xuống sông Mịch La mà chết.

Năm 1953, là năm kỷ niệm lần thứ 2230 năm qua đời của Khuất Nguyên, Hội đồng Hoà bình thế giới thông qua quyết nghị xác định Khuất Nguyên là một trong bốn danh nhân văn hoá thế giới được kỷ niệm vào năm ấy.

2 – Tư Mã Thiên

Tư Mã Thiên sinh vào khoảng năm 145 TCN, qua đời năm 90 TCN, hưởng thọ 56 tuổi. Tư Mã Thiên, tự Tử Trường, là nhà sử học, nhà văn học, nhà tư tưởng vĩ đại thời Đông Hán.

Tác phẩm “Sử Ký” do ông biên soạn là bộ thông sử thể ký sự đầu tiên của Trung Quốc, được Lỗ Tấn ca ngợi là khúc ca tuyệt với của sử gia, là “Ly Tao” không vần.”

Tư Mã Thiên là người Long Môn, Hạ Dương, thời Tây Hán. Hạ Dương (phía nam Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây ngày nay), là tên huyện, gần sát Long Môn. Cho nên Tư Mã Thiên tự xưng là “Thiên sinh Long Môn” (Lời nói đầu tự truyện Thái Sử công). Long Môn, núi Long Môn, rất có danh khí. Truyền thuyết kể rằng: Đại Vũ đã từng khai sơn trị thuỷ tại Long Môn. Phía nam núi Long Môn là sông Hoàng Hà.  Gia đình của Tư Mã Thiên ở đúng giữa Hoàng Hà và Long Môn. Danh thắng cổ tích ở địa phương này rất nhiều. Hồi nhỏ được thưởng lãm thăm thú mọi núi sông danh lam thắng cảnh, đồng thời Tư Mã Thiên cũng có cơ hội nghe được rất nhiều truyền thuyết và truyện lịch sử.

Năm sinh năm mất của Tư Mã Thiên chưa được ghi chép rõ ràng trong chính sử.

Trong tác phẩm “Thái sử công hành niên khảo”, học giả Vương Quốc Duy cho rằng Tư Mã Thiên sinh vào năm Trung Nguyên thứ năm, thời Hán Cảnh Đế (năm 145 TCN), qua đời vào khoảng năm Sử Nguyên thời Hán Chiêu Đế (năm 86 TCN), hưởng thọ 60 tuổi.

Nghe nói, đại gia đình Tư Mã Thiên từ thời Đường Ngu đến thời Chu, đều là các nhà lịch sử và nhà thiên văn nối dõi nhiều đời. Tư Mã Thoa là danh tướng phạt Thục thời Tần Huệ Vương. Tư Mã Xương là Thiết quan của Tần Thuỷ Hoàng. Đến phụ thân của Tư Mã Thiên là Tư Mã Đàm, lại làm Thái sử lệnh của Hán Võ Đế, đã khôi phục chức nghiệp sử quan tổ truyền lâu đời.

3 –  Đào Uyên Minh

Đào Uyên Minh (khoảng 365-427), tự Nguyên Lượng, cuối đời đổi tên thành Tiềm. Có thuyết nói tên Tiềm, tự Uyên Minh. Tự gọi mình là Ngũ Liễu tiên sinh, sau khi từ trần bạn bè người thân gọi tên huý là Đoan Tiết, cho nên người đời còn gọi là Đoan Tiết tiên sinh. Ông là người Sài Tang, Tầm Dương (thành phố Cửu Giang ngày nay), là thi nhân, nhà từ phú, nhà tản văn, cuối thời Đông Tấn đầu thời Nam Triều.

Đào Uyên Minh xuất thân trong một gia đình quan lại sa sút. Cụ ông Đào Khản là công thần khai quốc thời Đông Tấn, quân công hiển hách, làm quan đến chức Đại Tư mã, Đô đốc quân sự 8 châu, Thứ sử hai châu Kinh, Giang, được phong là Trường Sa quận công. Ông nội là Đào Mậu, phụ thân Đào Dật đều từng làm Thái thú.

Thời ấu thơ, gia đình suy vi, lên 9 tuổi cha chết, sống với mẹ và em gái. Là cô nhi quả mẫu, ba người đa phần sống ở trong nhà ông ngoại là Mạnh Gia. Mạnh Gia là danh sĩ đương thời, “không kết bạn tuỳ tiện, không phô trương sa sỉ, ít khi tươi cười. Nấu rượu ngon, uống nhiều mà không say, khi đắc chí thìkhông coi ai ra gì” (mục hạ vô nhân). Đào Uyên Minh “biết xử thế, thích làm theo ông ngoại.” Sau này, cá tính, tu dưỡng của ông đều có nhiều điểm giống phong cách của ông ngoại.

Trong gia đình ông ngoại lưu trữ nhiều sách, tạo điều kiện cho Đào Uyên Minh đọc sách cổ và tìm hiểu lịch sử. Trong thời đại Lưỡng Tấn, học giả tôn sùng “Trang”, “Lão” coi thường “Lục Kinh”, song ông không giống các sĩ đại phu thông thường học “Lão Tử”, “Trang Tử”, mà còn học “Lục Kinh” của Nho gia và những loại “sách khác” như văn sử cùng các loại sách thần thoại.

Với ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng thời đại và hoàn cảnh gia đình, khiến cho ông tiếp thụ hai loại tư tưởng khác của Nho gia và Đạo gia, bồi dưỡng nên hai hứng thú khác nhau là “thăm thú tứ hải” và “yêu thích núi đồi”.

4 – Lý Bạch

Lý Bạch (701-762), dân tộc Hán, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên Cư Sĩ, được mệnh danh là “Thi tiên” sánh vai với Đỗ Phủ nên gọi chung là “Lý Đỗ”. Thân hình cao trên 7 thước (khoảng 1,83 mét). Sinh ra tại Đô hộ phủ Tây An, chết tại Diệp Thành, thuở nhỏ di cư đến huyện Xương Long, Cẩm Châu, Tứ Xuyên (thành phố Giang Du, tỉnh Tứ Xuyên ngày nay, thuyết này do Quách Mạt Nhược là đại biểu; Lại có thuyết cho rằng Lý Bạch sinh ra tại thành phố Giang Du, Tứ Xuyên).

Lý Bạch là nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa vĩ đại thời nhà Đường. Phong cách thơ của ông hào phóng bay bổng, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ lưu chuyển tự nhiên, âm luật hài hoà đa biến. Ông khéo léo hấp thu chất liệu từ trong dân ca, thần thoại, cấu thành sắc thái lung linh sán lạn chỉ có ở ông, là đỉnh cao mới của thi ca lãng mạn chủ nghĩa       tích cực có từ Khuất Nguyên.

Hàn Dũ đã viết: “Lý Đỗ văn chương tại, quang diệm vạn trượng trường” (Văn chương của Lý Bạch và Đỗ Phủ còn, thì ánh sáng chiếu xa vạn trượng- “Trọc Trương Tịch”).

Vua Đường Văn Tông đã ngự phong Thơ của Lý Bạch, Múa kiếm của Bùi Án, Thảo thư của Trương Húc là “Tam tuyệt”.

Kiếm thuật của Lý Bạch tại triều Đường có thể xếp thứ nhì (dưới Bùi Án), nhưng nếu như Lý Bạch bỏ văn theo võ, chuyên tâm nghiên cứu kiếm thuật, tin rằng sẽ không   kém gì Bùi Án. Khi còn trẻ, Lý Bạch là một vị hiệp sĩ trên đường gặp sự bất bình, bèn   rút đao tương trợ. (Điều này có liên quan đến tư tưởng hiệp sĩ, một trong ba tư tưởng lớn của ông), trong “Dã sử” có nhiều ghi chép về phương diện này.

5 – Đỗ Phủ

Đỗ Phủ (712-770), dân tộc Hán, tự Tử Mỹ, người huyện Củng, tỉnh Hà Nam (Củng Nghĩa, Trịnh Châu ngày nay), người đời gọi là Đỗ Công Bộ, Đỗ Thập Di, tự gọi  mình là Thiếu Lăng Dã Lão (ông già quê mùa ở Thiếu Lăng), là thi nhân hiện thực chủ nghĩa vĩ đại thời nhà Đường ở Trung Quốc.

Đỗ Phủ là nhà thơ hết lòng vì nước vì dân, được người đời mệnh danh là Thi Thánh, được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn  hoá thế giới, sánh vai với Lý Bạch mệnh danh chung là “Đại Lý Đỗ”.

Quê cha đất tổ của Đỗ Phủ ở Tương Dương (thành phố Tương Phàn, tỉnh Hồ Bắc ngày nay), viễn tổ là cụ Đỗ Dự công danh hiển hách thời nhà Tấn, ông nội là Đỗ Thẩm Ngôn, thi nhân đầu triều Đường.

Đỗ Phủ đã từng đảm nhiệm Tả Thập Di, Kiểm hiệu Công Bộ viên ngoại lang, vì thế hậu thế gọi ông là Đỗ Thập Di, Đỗ Công Bộ. Đỗ Phủ sinh sống trong thời kỳ lịch sử từ thịnh chuyển sang suy của triều Đường, thơ của ông đa số viết về xã hội động loạn,   chính trị hắc ám, nhân dân thống khổ, nên thơ của ông được mệnh danh là “Thi sử”.

Đỗ Phủ lo cho nước, lo cho dân, nhân cách cao thượng, thi nghệ thậm tinh, được hậu thế mệnh danh là “Thi Thánh”. Suốt đời, Đỗ Phủ viết được trên 1.400 bài thơ, trong đó rất nhiều tác phẩm nổi tiếng truyền tụng thiên cổ, ví dụ “Tam lại” và “Tam biệt”, đồng thời có “Đỗ Công Bộ tập” lưu truyền nhiều đời; Trong đó “Tam lại” là “Thạch Hào lại”, “Tân An lại” và “Đồng Quan lại”; “Tam biệt” là “

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here

three + 13 =