Bằng một giọng điệu đặc biệt, V.Hugo đã thể hiện những triết luận sâu sắc, đôi khi là sự lãng mạn nhưng cũng có khi là một nụ cười giễu cợt đầy châm biếm, ông đã đưa “Nhà thờ Đức bà Paris” thành một trong những tiểu thuyết tiêu biểu của nền văn học hiện đại nói chung, của nền văn học Pháp và bản thân tác giả V.Hugo nói riêng. Victor Hugo là một trong những tác giả lớn của nền văn học hiện đại thế giới nói chung, nền văn học Pháp nói riêng.
Victor Hugo là một trong những tác giả lớn của nền văn học hiện đại thế giới nói chung, nền văn học Pháp nói riêng. Trong đó với những thành công cụ thể của sự nghiệp viết tiểu thuyết, ông đã góp nhiều thành tựu vào kho tàng tiểu thuyết nhân loại, đặc biệt là tác phẩm “Nhà thờ Đức bà Paris” (Notre Dame de Pais) và “Những người khốn khổ” (Les Mierable), một đột phá mới. Nhà thờ Đức bà Paris được xem như một trong số các tác phẩm đặc sắc của V.Hugo, thuộc thể loại tiểu thuyết lãng mạn Pháp. Trong đó, bằng thủ pháp nghệ thuật tương phản, tác giả đã cấu trúc nên nhiều tầng triết mỹ cho cuốn tiểu thuyết, nhằm đưa tính trí tuệ và đẩy tính tư tưởng lên cao độ. Đặc biệt, tính hư cấu ở đây được thể hiện ngầm ẩn thông qua các nhân vật, hoàn cảnh và sự việc xuyên suốt tác phẩm.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đi vào tìm hiểu thủ pháp tương phản trong “Nhà thờ Đức bà Paris” hiện diện thông qua cuốn tiểu thuyết, xem xét trên hai phương diện: trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và giọng điệu tác phẩm. Bằng việc khái quát sơ lược chân dung V.Hugo và tác phẩm “Nhà thờ Đức bà Paris”, chúng tôi sẽ đưa đến một tương quan liên hệ, đối chiếu giữa thủ pháp nghệ thuật và tác phẩm. Qua đó, hai khía cạnh của thủ pháp tương phản sẽ được thể hiện sâu sắc và rõ rệt.Khái quát về tác giả và tác phẩm
Khái quát về tác giả
Tiểu sử
Victor Hugo sinh ngày 26/2/1802 tại Besancon- mất ngày 22/5/1885 tại Paris. Ông là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Ông đồng thời cũng là một nhà chính trị một tri thức tiêu biểu của thế kỉ 19.
Ông là con trai út của một vị tướng triều đình, ông cùng với anh trai Eugene được giữ học tại trường College des Nobles, Madrid. Khoảng năm 1813 ông về Paris sống với mẹ.
Tháng 9/1815 ông trọ học tại trường Cordier đây là khoảng thời gian ông bắt đầu làm thơ.
Năm 1821, ông được vua Louis 18 tặng học bổng trị giá một nghìn Franc với tác phẩm thơ Odes.
Sau khi mẹ mất(1821) ông làm đám cưới với bà A.Foucher và họ sinh được năm người con. Ông có rất nhiều tình nhân, người yêu và đem lại cảm hứng sáng tác cho ông là Juliette.
Ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp vào ngày 7/2/1841.
Năm 1843, ông bị chấn động mạnh bởi cái chết của con gái cùng với người chồng của con gái.
Năm 1847 ông bắt đầu đi vào chính trị. Ông được bầu làm nghị sĩ hội đồng lập hiến vào năm 1848. Ông lên án cuộc đảo chính của hoàng tử Louis- Napoleon và lập tức ông bị buộc đi đày ở Bỉ sau đó là ở Jersey và Guernesey. Trong thời gian này ông vẫn không ngừng sáng tác.
Năm 1870, nền cộng hòa Pháp được thiết lập, ông trở về Paris và được bầu vào Quốc hội vào ngày 8/2/1871.
Năm 1876 ông được bầu làm thượng nghị sĩ và ông lên tiếng ân xá cho các chiến sĩ công xã Paris.
Đến ngày 22/5/1885, ông qua đời vì sưng huyết phổi, 2 triệu người đã đưa tiễn ông.Thi hài ông được đặt tại điện Pantheon.
Victor Hugo
Sự nghiệp:
Victor Hugo chiếm 1 vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp, các tác phẩm của ông trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm thơ, tiểu thuyết, kịch, sử thi…
Thơ trữ tình:
- Tập thơ Odes et Ballades(1826)Tập thơ Odes et Ballades(1826)
- Les feuilles dautomne(1831)Les feuilles dautomne(1831)
- Les contem plations(1856)Les contem plations(1856)
- Thơ chống Napoleon 3 bằng tập thơThơ chống Napoleon 3 bằng tập thơ
- Les chatimentsLes chatiments
Sử thi:
- La legende des siecles(1859 và 1877)La legende des siecles(1859 và 1877)
- Tiểu thuyết với 2 tác phẩm thành công vang dộiTiểu thuyết với 2 tác phẩm thành công vang dội
- Nhà thờ Đức Bà ParisNhà thờ Đức Bà Paris
- Những người khốn khổNhững người khốn khổ
Kịch:
- Cromwell(1827)Cromwell(1827)
- Hernani(1830)Hernani(1830)
- Ruy Blas(1838)Ruy Blas(1838)
Ông cũng đã có cống hiến lớn lao cho sự đổi mới thơ ca và sân khấu. Cùng với những kiệt tác văn học đã đưa Victor Hugo trở thành gương mặt nổi bật của thời đại văn học Pháp.
Bối cảnh thời đại :
Thế kỷ 19, giai cấp tư sản ở nhiều nước Tây Âu lần lượt giành được thắng lợi và củng cố chính quyền sau cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789. Công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa diễn ra đồng thời với sự phát triển của các ngành khoa học, công nghệ. Giai cấp vô sản dần dần lớn mạnh trở thành một lực lượng chính trị đối lập với giai cấp tư sản. Từ giữa thế kỷ 19, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển với quy mô lớn.
Văn học phương Tây thế kỷ này bao gồm nhiều khuynh hướng, trào lưu với nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới. Trong đó, hai trào lưu văn học chủ yếu là chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực đã hình thành ở hầu hết các nước phương tây. Văn học Pháp, Anh, Mĩ là những nền văn học tiêu biểu cho thời đại này, nhưng văn học Pháp có tính chất tiêu biểu, điển hình và đạt nhiều thành tựu hơn cà ở khu vực Tây Âu.
Cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho lịch sử Châu Âu. Trong lịch sử thế giới đó là cuộc cách mạng duy nhất giành được chiến thắng triệt để chủ nghĩa phong kiến lâu đời. Cách mạng Pháp đã mang lại sự thay đổi lớn lao trên tất cả mọi lĩnh vực của xã hội Pháp, mở đường cho chủ nghĩa tư bản và sự thống trị của giai cấp tư sản (1793). Điển hình là hàng loạt những cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tục trong những năm 1832, 1835. Giai cấp vô sản dần dần lớn mạnh. Cuộc cách mạng 1848 tái lập nền cộng hòa.
Nền cộng hòa Pháp từ những năm 80 sắp kết thúc giai đoạn chủ nghĩa tự do cạnh tranh để chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Và từ đây cuộc đấu tranh giữa tư sản và vô sản càng trở nên quyết liệt. Văn học thế kỷ 19 đã phản ánh những biến động cách mạng, những tư tưởng, cuộc sống xã hội cũng như chính trị của nhân dân Pháp.
Tác phẩm Nhà thờ đức bà Paris :
Bối cảnh xã hội :Bối cảnh xã hội :
Tác phẩm ra đời xuất phát từ việc tác giả muốn viết một cuốn tiểu thuyết về ngôi nhà thờ nổi tiếng ở Paris. Ông đã nhiều lần đến nhà thờ Đức bà Paris để ngắm kiến trúc cổ của ngôi nhà thờ và nảy ra ý tưởng viết một cuốn tiểu thuyết có tính chất lịch sử lấy bối cảnh Paris thời Trung cổ. Ông muốn ngôi nhà thờ cổ kính tráng lệ vượt lên trên thời gian và tất cả những biến cố. Tác phẩm đã thể hiện được sự vươn đến một tầm cao triết lý, qua cách mô tả một định mệnh đã dẫn các nhân vật gắn liền với ngôi nhà thờ này cho đến chỗ chết, chỗ hủy diệt. Chính cảm hứng bi quan này đã đem đến cho tác phẩm vẻ lớn lao và hoang dại.
Tóm tắt nội dung
Tác phẩm được chia làm 11 quyển và dày hơn 600 trang, nội dung cụ thể của từng quyển:
Quyển 1, 2, 3:
Esméralda là một cô gái xinh đẹp cô làm nghề múa rong trước nhà thờ Đức Bà, công việc này bị sự cấm đoán của phó giám mục nhà thờ là Claude Frollo. Ông này đã say mê cô vũ nữ lúc nào không hay và ông đã lệnh cho Quasimodo bắt cóc Esméralda, sự việc không thành Quasimodo bị bắt, cô vũ nữ bắt đầu yêu đại úy Phoebus người đã cứu cô.
Quyển 4- 6:
Là cô gái có lòng nhân từ, Esméralda bỏ qua vụ bắt cóc và đã đem nước cho Quasimodo uống trong lúc hắn bị giam giữ. Chính vẻ đẹp và tấm lòng của Esméralda đã đánh thức trái tim hoen rỉ, tâm hồn hoang dại của hắn. Và Quasimodo bắt đầu yêu, một tình yêu bất diệt không cần đền đáp.
Quyển 7:
Esméralda yêu Phoebus một cách mù quáng, dù Phoebus thực chất chỉ là một gã sở khanh, đã có hôn thê là một cô tiểu thư. Khi Esméralda hẹn hò với viên đại úy phó giám mục yêu Esméralda đã theo dõi đôi tình nhân và y đã không kìm chế được nỗi ghen tuông khi thấy 2 người quan hệ đã đâm Phoebus rồi bỏ trốn. Esméralda bị kết án vì hai tội: giết người và làm phù thủy.
Quyển 8-10:
Esméralda bị kết án treo cổ, Quasimodo phá pháp trường để cứu Esméralda, đem cô vào trú ẩn an toàn trong nhà thờ Đức bà. Những người ăn mày chờ Esméralda nhưng không thấy cô trở lại đã tấn công vào nhà thờ để cứu cô nhưng Quasimodo tưởng họ đến giết Esméralda nên tấn công và đẩy lùi họ.
Quyển 11:
Phó giám mục Claude Frollo tuyệt vọng đến mức mất cả lý trí và nhân tính. Hắn phát hiệnra Esméralda đang trú ẩn trong nhà thờ nên đã ép buộc và đe dọa cô. Với sự che chở của Quasimodo, Esméralda vẫn sống bình an và vẫn yêu Phoebus. Frollo đã ra điều kiện buộc Esméralda phải ưng thuận mình nếu không sẽ báo cho cảnh binh, cô thà chết chứ không chịu.
Frollo đã giao cô cho một bà tu điên dại với mục đích hành hạ Esméralda cho đến chết nhưng hai mẹ con đã nhận ra nhau nhờ đôi giày trẻ em cô luôn mang bên mình. Cuối cùng cô cũng bị phát hiện và bị treo cô lần thứ hai. Quasimodo biết được đầu đuôi câu chuyện nên đã xô ngã Frollo từ trên tháp chuông nhà thờ xuống đất và ôm xác Esméralda chết chung trong hầm mộ. Khi khai quật hầm mộ người ta thấy 2 bộ xương,một bộ không bình thường ôm lấy bộ xương kia, họ định tách ra thì bộ xương không bình thường tan thành tro bụi.
Tiểu thuyết Nhà thờ Đức bà Paris
Nghệ thuật tương phản trong tác phẩm:
Khái niệm:
Thủ pháp tương phản là một trong những khái niệm không chỉ gắn với tiểu thuyết lãng mạn mà còn có dấu ấn đậm nét trong thơ. Khi nói về thủ pháp tương phản V.Hugo đã từng nói: “Nghệ thuật hiện đại sẽ thấy không chỉ mọi vật trong thế giới đều là cái đẹp, phù hợp với lòng người mà sẽ cảm thấy cái xấu bên cạnh cái đẹp, cái dị dạng bên cạnh cái xinh xắn, cái thô tục được che giấu đằng sau cái cao cả, cái ác tồn tại sau cái thiện, đen tối và ánh sáng trộn lẫn vào nhau”.
Tương phản có nguồn gốc từ hội họa, nhằm thể hiện những thuộc tính trái ngược nhau giữa các sự vật, hiện tượng đó là sự tương phản giữa màu sắc và ánh sáng, giữa chất liệu và yếu tố tạo hình. Trong văn học, tương phản được biết đến như một biện pháp nghệ thuật nhằm so sánh, đối chiếu giữa hai bộ phận văn học. Đem một bộ phận (một khái niệm, một sự vật, một hiện tượng) đặt ngang bằng hoặc bên cạnh (khái niệm, sự vật, hiện tượng) để gây ấn tượng mạnh mẽ làm nổi bật một trong hai bộ phận trên. Thủ pháp tương phản trong văn học được dùng để xây dựng những hình ảnh, những chi tiết, giọng điệu, hình tượng,…có tính chất, đặc điểm hoàn toàn ngược, nhằm nhấn mạnh một nội dung, một quan điểm, một tư tưởng nào đấy. Tuy nhiên , sự ngược về bản chất ấy phải được xét cho những đối tượng trên cùng một bìnhdiện và phải theo một tiêu chí nhất định, điều đó mới khiến nó có ý nghĩa.
Thủ pháp tương phản trong xây dựng tình huống :
Tương phản giữa các tình huống truyện:
Với “Nhà thờ Đức Bà Paris”, Victor Hugo đã làm một phép cộng gộp tài tình những đỉnh cao nghệ thuật của nhân loại. Nhà sử học Giuyn Misơlê nhận xét vào năm 1833: “Cạnh ngôi nhà thờ lớn cổ kính, Victor Hugo xây dựng một toà nhà thờ lớn khác bằng thi ca, cũng vững chắc như nền móng, cũng ngất cao như dãy tháp của toà nhà thờ nọ”. Điều đó có thể cho thấy được rằng, tài năng nghệ thuật của Victor Hugo trong “Nhà thờ Đức Bà Paris” đã hoàn toàn thuyết phục độc giả. Trong tiểu thuyết cũng như trên sân khấu, Hugo ưa miêu tả cái cao cả cạnh cái tầm thường: ở đây ông đưa ra cốt truyện đầy phiêu lưu kịch tính, với diễn biến thăng trầm lúc bi thảm khi hài hước. Nét nổi bật nhất thể hiện Chủ nghĩa lãng mạn là ông đã sử dụng bút pháp tương phản.
- Dưới ngòi bút của V.Hugo, sự tương phản xuất hiện ngay trong mỗi tình huống truyện, nhân vật, giữa địa vị xã hội và phẩm chất đạo đức, giữa diện mạo bên ngoài và thế giới nội tâm. Đó là Paris của dân chúng hiện lên với những phố hẻm tối tăm, với những cảnh hoang tàn…tương phản với những giờ phút rạng rỡ, buổi sáng những ngày lễ lớn, khi mặt trời phát đi một tín hiệu thần kỳ, Paris thức dậy với muôn ngàn tiếng chuông thoạt đầu thưa thớt rồi ngày càng dóng dả và trở thành một giàn nhạc giao hưởng với những đàn bướm âm thanh sặc sỡ, làm rung rinh những chân trời xa tắp.
Ngay từ đầu tác phẩm Victor Hugo đã khéo léo xây dựng nên những khung cảnh thiên nhiên, những bức tranh đầy gam màu của bút pháp tương phản nhằm dự báo cuộc sống của những con người trong bức tranh đó cũng đầy những màu sắc, nhiều cung bậc trong thời kì trung cổ. Một bên là những con người đại diện cho tầng lớp dưới đáy xã hội, họ tuy là những lũ ăn mày, gã thi sĩ vô danh, gã kéo chuông nhà thờ hay chỉ là cô gái múa hát rong nhưng ở nơi họ vẫn toát lên sức sống mãnh liệt, sự yêu đời và đầy ắp tình người, một bên là những con người thuộc tầng lớp tu sĩ quý tộc, thế nhưng với lối sống với những luật lệ hà khắc, những hủ tục đáng lên án đã vô tình đẩy họ vào sự cô độc và rút vào bóng tối.
- Sự tương phản giữa các tình huống được ông sử dụng thường xuyên như một động lực để phát triển các tình tiết của cốt truyện, tạo nên sự căng thẳng hồi hộp, làm nhịp điệu của cốt truyện dồn dập thu hút, và qua đó cũng thể hiện quan điểm nhân đạo của ông. Để tạo nên các tình huống tương phản, Victor Hugo đã phải hy sinh chính những nhân vật mà ông yêu quý, dù đau đớn.
Tình huống truyện được đẩy lên tới mức cao trào trong cặp nhân vật Gudulier- Esméralda. Đến phút cuối cuộc đời Gudulier mới nhận ra Esméralda là đứa con gái mình đã rứt ruột đẻ ra. Nhưng đó cũng là đỉnh điểm của tấn bi kịch: Sự đoàn tụ trên cái chết ấy gây một ấn tượng mạnh trong lòng độc giả và thét lên lời tố cáo đối với sự tàn nhẫn của xã hội phong kiến thần quyền.
Tình huống thật đối nghịch khi Frollo- vị linh mục uyên thông, sống trong u uẩn hà khắc lại bị chính cô gái Bôhemieng sống tự do, hoang dã chinh phục.
Nhân vật của Victor Hugo dường như không tuân theo quy luật của cuộc sống, chính tình yêu làm cho họ đau khổ. Chính cô gái Bôhêmiêng xinh đẹp đó cũng đặt trọn tình yêu mù quáng vào Phoebus. Hay Quasimodo- dù anh ta xấu xí nhưng anh vẫn yêu Esméralda say đắm. Tình huống truyện còn được đẩy đến kịch tính khi ông để chính những nhân vật của mình tự kết án, tự đóng dấu cho một kết thúc thảm kịch- Quasimodo đẩy Phoebus, vị linh mục mà anh ta hằng tôn thờ xuống tháp chuông. Giữa cái thiện và cái ác, giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa những cái xinh đẹp và cái xấu xí, giữa những cái được coi là cao trọng trở nên thấp hèn và đáng lên án, giữa những con người tưởng chừng đáng khinh bỉ loại bỏ lại trở nên đẹp đẽ lạ thường điều đó được V.Hugo tái hiện sống động và sắc sảo khi xây dựng những tình huống truyện tưởng chừng như xuôi thuận nhưng thật ra là tương phản với những quan niệm đạo đức lúc bấy giờ.
Tương phản thể hiện ở các mối quan hệ :
Đầu tiên, ta có thể thấy sự tương phản ấy trong các mối quan hệ giữa các nhân vật. Trong truyện có một trục xuyên suốt làm nên tình huống truyện, đó là tình yêu dành cho Esmeralda. Đó là Frollo, là Quasimodo, là Gringoire, là Phoebus…tất cả yêu cô theo một kiểu riêng và lại được cô đáp theo một cách riêng.
Flollo vốn là một phó giáo đức cao vọng trọng, những tưởng đã có thể vứt bỏ hết mọi ham muốn của con người. Thế nhưng tất cả bị phá vỡ khi lần đầu tiên ngài phi giáo chủ nhìn thấy Esméralda ,đó là cô gái chính ông phải hạ bệ chúa để tôn vinh sắc đẹp của cô: “ Cô gái xinh đẹp đến mức Chúa cũng phải yêu thích hơn Đức Mẹ và sẽ chọn làm mẹ và con muốn được cô ta sinh ra nếu cô ta xuất hiện trước khi Chúa làm người”, là cái khoảnh khắc mà Frollo: “ sững sờ, say đắm, mê mẩn, để mặc việc mình cứ ngắm em”. Mối quan hệ đặc biệt giữa một người thuộc về Chúa, đáng lẽ không được phép yêu hay bất cứ một tình cảm “trần tục” nào đối với phụ nữ đừng nói chi là một cô gái xuất thân thấp kém, làm cho sự đối lập và tương phản trở nên sâu sắc.
Xây dựng mối quan hệ ấy, Hugo đã gửi đến cho các đức giáo hoàng, các mục sư đang hoàng, các mục sư đang hành xác trong nhà thờ kia một nụ cười đầy mỉa mai. Không ai có thể chối bỏ những gì thuộc về bản năng và tự nhiên nhất của con người.
Còn Quasimodo là một hình ảnh hoàn toàn khác biệt. Không có lấy một thân phận trong xã hội ,dáng hình xấu xí đến mức dị dạng, con người ấy tập trung mọi thứ bất hạnh nhất mà một con người có thể có được. Thế nhưng “Con quái vật” rung chuông ở nhà thơ ấy vẫn đem lòng yêu Esméralda. Điều đó tạo một sự tương phản mạnh mẽ cho cả 2 nhân vật, một đẹp đến mức bất kì ai cũng phải yêu quí, còn một lại xấu xí đến mức không bình thường. Quasimodo yêu Esméralda không vì sắc đẹp của nàng, mà còn vì cử chỉ cao đẹp mà không một ai khác, không người dân thành Paris nào có thể đối xử với anh, ngay cả đó là một vị cha nuôi đáng kính. Ngay giữa lúc anh bị cả thành phố Paris đối xử như một tù nhân, một con vật để thỏa mãn thú vui tra tấn, giữa lúc Quasimodo chết vì khát, vì sự độc ác của con người thì Esméralda là người duy nhất trao cho anh sự sống. Cô mang nước đến cho Quasimodo và từ đó, những giọt nước mắt của Quasimodo chảy dài trên khuôn hình dị dạng. Cuộc gặp gỡ “ Chính Thức”, tình hình lạ kì ấy chính là hiện thân của cái đẹp, cái cao cả cứu vướt con người khỏi những bất hạnh của định mệnh mà tạo hóa (dị hình của Quasimodo) và thậm chí là xã hội (sự ghê tởm của xã hội) đem đến cho họ.
Tương phản thể hiện ở hoàn cảnh và hành động của nhân vật:
Hoàn cảnh, hành động của các nhân vật chính tạo sự tương phản rõ rệt, làm nổi bật lên sự độc đáo ở cốt truyện, hình thành nên nét đặc biệt trong tính cách của từng nhân vật trong truyện.
Đối lập đầu tiên, rõ ràng và dễ nhìn thấy nhất đó chính là sự đối lập giữa cô gái Esméralda xinh đẹp và thằng gù Quasimodo dị tật gớm ghiếc. Hoàn cảnh trớ trêu thay,cả hai đều là những đứa trẻ mồ côi. Nhưng Quasimodo mang hình hài của một đứa trẻ dị dạng xấu xí.
Ngược lại, Esméralda mới sinh ra đã là một đứa bé xinh xắn. Đứa trẻ lớn lên trở thành một cô vũ nữ hết sức xinh đẹp, quyến rũ,luôn được hầu hết tất cả mọi yêu quý. Một người hết sức hoàn hảo, còn người kia đầy những khuyết tật… chính hoàn cảnh đã hình thành những tính cách trái ngược nhau, Esmeralda sống sôi nổi, hoạt bát đáng yêu, còn ngược lại, với sự khinh miệt của mọi người, Quasimodo sống một cuộc đời khép kín với những chiếc chuông của nhà thờ đức bà. Đây thật sự là những hình tượng mang đậm nét tương phản hết sức độc đáo của tác phẩm.
Hoàn cảnh, môi trường sống, nền giáo dục hoàn toàn khác cũng đã hình thành ba người đàn ông với ba tính cách, ba trái tim có cấu trúc hoàn toàn không giống nhau. Mục sư Claude Frollo sinh ra trong một gia đình trung lưu giàu có, từ nhỏ đã được cha mẹ chuẩn bị cho bước vào hàng giáo phẩm, được học đọc tiếng La tinh, lớn lên giữa cuốn sách lễ và bộ từ điển để rồi chỉ mới 20 tuổi chàng đã trở thành linh mục.
Trái hẳn với Claude Frollo, Phoebus là một đại úy điển trai, ăn mặt khá bảnh bao, tuy hơi vênh váo và làm điệu. Sinh trưởng nơi khá quyền quý, chàng tiêm nhiễm nhiều thói quen lính tráng. Chàng ưa la cà quán rượu, chỉ thấy thoải mái giữa đám ăn nói tục nhảm, chơi bời lính tráng, đàn bà dễ tính và thành công dễ dàng.
Và khác hẳn với hai người nêu trên, tác giả đã xây dựng một nhân vật, khác hoàn toàn không bình thường: Thằng gù với cái tên Quasimodo. Thằng gù dị dợm dần lớn lên, vĩnh viễn bị ngăn cách với thế giới bên ngoài bị hai tai họa là sinh ra vô thừa nhận và hình thù quái dị. Từ nhỏ bị giam hãm trong hai vòng tròn không thể vượt qua đó, gã khốn khổ đã quen không nhìn thấy gì hết trong đời sống bên ngoài nhà thờ, sống cô đơn, không ai bầu bạn, chỉ biết yêu quý mấy cái chuông của nhà thờ. Như thế, tác giả đã rất thành công khi dựng nên ba cái đời sống hoàn toàn khác hẳn nếu không muốn gọi là trái ngược nhau. Mỗi người một cách sống, một môi trường tồn tại không người nào giống người nào hết. Hoàn cảnh tạo nên tính cách và càng tạo khác biệt rõ ràng về hành động của từng nhân vật, đặt biệt là các biểu hiện trong cách thể hiện tình yêu với Esméralda.
Viên mục sư si mê Esméralda, nhưng không thể bộc lộ tình cảm, vì bản thân ông là một mục sư có đạo hạnh uyên bác. Với vẻ ngoài khắc khổ và giá băng, bề mặt đạo đức lạnh lùng đã đánh lừa tất cả mọi người. Đằng sau vẻ mặt giá băng ấy là sự đào xới tâm can, nức nở bên trong và quằn quại tâm hồn khi tình yêu bị dồn nén. Tình yêu mù quáng đã đẩy mục sư đến hành động đâm tên đại úy khi nhìn thấy Esméralda và viên đại úy đang tình tự với nhau. Hay khi nhìn thấy cô ấy bị tra khảo, ông đã không sao chịu nổi và dùng dao giấu trong áo tự đâm vào ngực mình. Nhưng tình yêu của ông là thứ tình yêu ích kỉ, khi đã van xin tình yêu của Esméralda nhiều lần không thành, cuối cùng ông đã đẩy cô vào chỗ chết để không ai có thể chiếm được cô cả.
Còn viên đại úy, thứ tình cảm mà viên đại úy dành cho Esméralda thì không thể gọi là tình yêu. Đại úy thể hiện tình cảm của mình một cách cuồng nhiệt, vồ vập theo kiểu ăn chơi qua đường, hắn chỉ muốn lợi dụng Esméralda làm trò vui giải trí mặt dù cô đã hết lòng yêu hắn. Hắn cùng vị hôn thê xem và để mặt cho người ta treo cổ Esméralda mà không hề mảy may động một chút thương xót nào hết. Không giống thứ tình yêu như điên dại của linh mục, trái ngược hoàn toàn thứ tình cảm lừa lọc của đại úy là tình yêu chân thành, run rẩy, tôn thờ của Quasimodo. Với thân hình dị dợm,nhưng Quasimodo có một trái tim chân thành, đẹp đẽ, thuần khiết hơn hết thảy mọi trái tim, vượt xa thứ tình cảm vẩn đục, đen tối của linh mục lẫn trái tim vô tình của viên đại úy. Quasimodo muốn dành những thứ tốt đẹp nhất có thể cho Esméralda, cố gắng bảo vệ cô bằng tất cả sức lực. Tình yêu của Quasimodo còn mãnh liệt hơn với hành động xô ngã vị linh mục- cha nuôi của mình, rồi ôm xác của Esméralda chết.
Sự tương phản nổi bậc nhất, đáng chú ý nhất là sự tương phản của hai nhân vật: Quasimodo và mục sư. Một người xấu xí, dị dạng, bị xã hội coi khinh nhưng có tâm hồn cao đẹp, trái tim giàu tình cảm, dung hết sức lực vốn có để bảo vệ người mình yêu. Còn vị linh mục đáng kính, được xã hộ coi trọng nhẽ ra phải có tâm hồn thánh thiện thực chất lại mang trái tim độc ác, hành động một cách hết sức tàn nhẫn, ích kỉ. Ngòi bút của Victor Hugo thật sự sắc sảo khi xây dựng các nhân vật với những nét tương phản tinh tế, độc đáo, đậm chất nghệ thuật đến vậy.
Nghịch lý trong số phận nhân vật :
Victor Hugo người được cả thế giới biết đến như một thiên tài trên thi đàn văn học. Sự xuất hiện của ông tựa một ngôi sao mọc sớm và lặn rất muộn ở chân trời thế kỉ. Trong sự đồ sộ của những gì còn để lại những dư âm miên man về bao kiếp người, về những thăng trầm của cuộc đời, được ông “ phát họa” sinh động trên những tác phẩm mà về sau người ta gọi nó là kinh điển. “Nhà thờ đức bà Paris” cũng là một trong số những tác phẩm đã đưa tên tuổi Hugo lên một tầm cao mới. Với bút pháp đa dạng đan xen, nhiều tình tiết độc đáo. Victo Hugo đã tài tình trong nghệ thuật xây dựng tình huống ở nghịch lý trong số phận nhân vật.
Nghịch lý trong đời sống: dàn trải cả tác phẩm là hình ảnh Guyluydo người luôn sống trong điên loạn phẩn nộ. Bà căm thù những người phụ nữ Ai Cập, bà nguyền rủa Esméralda. Để rồi trớ trêu thay ở cuối tác phẩm họ nhận ra nhau, Esméralda lại chính là đứa con gái đáng thương của bà. Trong tột cùng của niềm hạnh phúc lại chính là nỗi đau, Esméralda bị kết tội còn bà chết nghẹn bởi sự uất ức, lại một lần nữa bà bất lực khi để đứa con yêu rơi vào tay của “ tội ác”. Nghịch lý trong cuộc đời các nhân vật như vòng tròn định mệnh ôm rít lấy họ.
Nghịch lý còn thể hiện trong cái cách mà Hugo phát họa hình ảnh nhân vật: trong khi Esméralda hiện lên kiêu kì như một nàng tiên thì Quasimodo lại dị dạng đến đáng thương. Để rồi sau tình huống đánh tráothì dường như cuộc đời họ có sự gắn kết mơ hồ với nhau. Họ gặp nhau trong nghịch cảnh khi Quasimodo là kẻ bắt cóc mang rợn, Esméralda hiền lành thánh thiện khi cứu Quasimodo khỏi cơn khát chết người, và họ ở cạnh nhau khi tác phẩm kết thúc dù chỉ còn là hai bộ xương khô- mô tip “ người đẹp- quái vật”.
Nghịch lý chưa dừng lại ở đó nó còn hiện lên trên nền cái chết của Frollo, hắn chết ngay trong tay kẻ mà hắn đã nhận về nuôi “ Quasimodo”. Hắn chết ngay trên sàn nhà thờ nơi mà cả đời hắn tôn sùng.
Nghịch lý còn thể hiện trong tình yêu, Frollo đã yêu một người mà hắn từng xua đuổi, yêu một người mà hắn không bao giờ nghĩ tới. Để rồi chính hắn đắm chìm trong những hờn ghen của một tình yêu ích kỉ Esméralda đẹp là thế, cô gái trong sáng thơ ngây là thế vậy mà chính cô cũng bị men tình đưa vào mù quáng yêu Phoebus một kẻ sở khanh một cách chân thành, trong khi Quasimodo con người được nhắc đến với hình hài của “ tội ác”, thì trái tim hắn cũng bị đánh thức trước giai điệu tình yêu, yêu chân thành mà không cần hay nói đúng hơn một tình yêu không được đáp trả. Vòng tròn ái tình chạy quấn quanh lấy họ, cái chết như sự giải thoát như để chỉ rõ đâu mới thực là những giá trị thực của cuộc sống nơi tình cảm con người.
Sự tương phản, cái nền của bao nghịch lý trong tác phẩm cũng chính là ý đồ nghệ thuật của tác giả để qua đó mỗi người có cách nhìn chân thực và cụ thể nhất về tác phẩm.
Giọng điệu của tác phẩm
Giọng văn chính luận:
Khi tôi đến, tôi không có gì cả
Khi tôi đi, tôi vẫn không có gì
Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian
Từ hư không đến, và tôi sẽ trở về với hư không.
(Cát bụi trở về với cát bụi – Dust to dust hay Ash to ash)
Bốn câu thơ trên là cái kết khá bí ẩn trong tiểu thuyết “Nhà thờ Đức bà Paris” của Victor Hugo.
Bên cạnh giọng điệu mỉa mai, lãng mạn tác giả nhấn mạnh tới lí luận đanh thép hào hùng trong suốt chiều dài tác phẩm.
Như người ta thường nói chính luận là thể loại văn học đồng thời là một thể tài báo chí, có nội dung phản ánh các vấn đề có tính thời sự về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, văn học, tư tưởng, v.v…
Điều này thể hiện khá rõ trong tiểu thuyết “Nhà thờ Đức bà Paris”
Theo chiều dài lịch sử tác giả vẽ ra một mục sư lúc đầu cũng đúng với dáng dấp mục sư được mọi người kính trọng nhưng chính cái xã hội năm 1842 đã kéo theo sự xuất hiện của cô gái du mục làm mục sư động lòng thương yêu, biến ông ta trở thành con người trần tục: ham mê sắc giới, ích kỷ, độc ác. Chỉ một mình ông kéo theo sự ảnh hưởng tiêu cực tới tư tưởng của con người, đánh mất hình ảnh tôn nghiêm nhà thờ- nơi mà mọi người tôn kính nhất- trở thành nơi hỗn loạn làm tiếng chuông nhà thờ dần dần trở nên lãnh đạm.
Có lẽ bối cảnh lịch sử năm 1482 là như thế.
Tiểu thuyết đi sâu vào con người, vào hoàn cảnh xuất thân, vào tính cách con người vào luật lệ cái bang… để nói lên rằng: “xã hội ấy là như thế”.
Đúng là như thế.
Đúng là xã hội đen tối. Từng lí lẽ, dẫn chứng cho tới chi tiết hình ảnh tra tấn dã man cho chúng ta trở về với cái kết của những người tù đày, những người chịu tội.Phải chăng xã hội ấy, cái tòa án đại diện cho nhân dân ấy hướng tới một cái kết cuối cùng: bản án phạt tội nhanh chóng được thi hành.
Và điều này được tái hiện lại gần gũi nhất, sắc nét nhất trong tiểu thuyết “Nhà thờ đức bà Paris” chính là hình ảnh Quasimodo bị tra tấn, người con gái du mục bị kẹp chân… phải chăng tác giả muốn dùng ngòi bút chính luận điêu luyện của mình vẽ ra trước mắt con người khung cảnh năm 1842- một bối cảnh lịch sử coi thường lẽ phải, xử án bằng cực hình. Chứng tỏ rằng con người trong thời đó chẳng là gì cả.
Đâu chỉ dừng ở đó, tiểu thuyết còn vẽ ra hàng loạt lời lẽ thô tục, hành động thái quá của vị mục sư Dom Claude Frollo cho chúng ta cảm nhận rõ tôn giáo năm 1842 cũng chỉ là như thế, chỉ là cái vỏ bên ngoài mà thôi.
Xã hội ấy chính con người dẫn con người tới mức bị coi thường. Mọi người không biết bảo vệ, giúp đỡ nhau, họ chỉ biết hùa theo, hưởng ứng đánh, ném đá vào phạm nhân. Tiểu thuyết khắc họa hàng trăm cuộc đời, hàng ngàn thân phận khác nhau, mỗi thân phận lại gắn với hàng chuỗi câu chuyện về cuộc đời đau thương bất hạnh, để nói lên rằng: “không ai là hạnh phúc trọn vẹn”, và ngay cả nàng Esméralda cũng vậy.
Tác giả vẽ ra nàng rất đẹp, nàng tài giỏi nhưng cuối cùng nàng cũng có cái chết đau đớn mà thôi. Bằng lí lẽ của mình, phải chăng Victor Hugo để lại cho chúng ta chút dư vị của cuộc đời, của xã hội Pháp năm 1842 tất cả chỉ là hư vô, cát bụi mà thôi.
Giọng điệu trữ tình ngoại đề:
Trữ tình ngoại đề hay còn có tên là ngoại đề trữ tình là một thuật ngữ văn học dùng để chỉ một hình thức của ngôn từ tác giả: là ngôn từ của tác giả kiêm người trần thuật bị chệch ra ngoài việc miêu tả các sự kiện trong cốt truyện nhằm bình luận hoặc đánh giá về chúng, hoặc về những điều khác, không trực tiếp gắn với hành động của tác phẩm. Nói một cách dễ hiểu đó là những chỗ tác giả dừng lại để bộc lộ cảm xúc của chính mình.
Tính ước lệ và tính xúc cảm của ngôn từ thi ca khiến trữ tình ngoại đề thường phổ biến trước hết ở các tiểu thuyết bằng thơ, truyện thơ tuy nhiên giọng điệu trữ tình ngoại đề cũng có thể có ởm những tác phẩm văn xuôi với những đoạn mang tính biểu cảm cao so hẳn với trần thuật trong cốt truyện.
Về ý nghĩa, trữ tình ngoại đề trực tiếp đi vào thế giới tư tưởng lý tưởng của tác giả, giúp cho việc xây dựng hình tượng của những người cầm bút trở thành một người trò chuyện “tâm giao” với độc giả.Và trong tác phẩm “Nhà thờ Đức Bà Paris” cũng thế!
Với những cấu trúc đặc biệt V.Hugo đã dựng nên bức tranh đồ sộ, hoành tráng về cuộc sống,con người thời trung cổ bằng một hệ thống ngôn từ tài hoa, nhiều tầng bậc. Ra đời cách nay gần hai thế kỉ song “toà nhà vĩ đại bằng thơ ca” vẫn được nhân loại đón nhận với tất cả niềm say mê.
Phải chăng do chính sự độc đáo của nghệ thuật lãng mạn, đỉnh cao là sự lược bỏ mọi hạn chế củatư tưởng thời đại đã giúp cho tác phẩm của “cây sồi xanh ngắt”- V.Hugo có sức vang động tâm can người đọc, đánh thức cái lương tri, cảnh tĩnh mạnh mẽ vào từng ngóc ngách sâu kín nhất của lòng người.
Không chỉ thế chính ông đã làm sống dậy trước mắt người đọc cái “đêm dài trung cổ” khủng khiếp ở phương Tây. Paris ban ngày là một thành phố hoa lệ, đô thành của những cung điện thần kỳ điển hình là công trình vĩ đại mang tên Nhà thờ Đức Bà Paris rực rỡ trong những ngày lễ lớn. Nhưng khi về đêm nó trở mình thành chốn “vui chơi muôn năm” của những tay trộm cướp, đám thầy tu phá giới, đám phế binh. Trong khi những kẻ hành khất què quặt, lở loét lại vang động với những tiếng gào thét từ sâu bên trong những con hẻm tối tăm đầy ấp sự hoang tàn, đổ nát. “toà tháp là nơi náo nhiệt nhất nên cũng là nơi ghê tởm nhất của đám ăn mày. Ban đêm khi những người của đám ăn mày đã say ngủ, khi không còn cửa sổ nào sáng đèn trên các mặt tiền xám xịt chung quanh quảng trường, khi không còn nghe tiếng thét vẳng ra từ những dãy nhà chen chúc, từ những ổ kiến nhung nhúc kẻ cắp, gái đĩ, trẻ con ăn cắp được đẻ hoang, ta vẫn nhận ra toà tháp vui nhộn do tiếng ồn ào và ánh đèn đỏ chói cùng lúc toả sáng từ các lỗ thông hơi, cửa sổ vách tường rạn nứt, như thể chúng toát ra từ lỗ chân lông toà tháp”.
Bên cạnh việc miêu tả những đám đông đặc sắc, những ngóc ngách của công trình kiến trúc Paris trên nhiều góc cạnh kết hợp khéo léo chất hiện thực cùng những ngôn từ sinh động giàu chất thơ, V.Hugo đã miêu tả thành công cảnh tượng Paris cùng khổ, thối rỗng dù chúng đã được che đậy bên dưới lớp mặt nạ hào nhoáng sang trọng và tôn nghiêm! Thủ pháp tương phản quả là tài tình!
Giọng điệu hài hước, châm biếm:
Giọng điệu hài hước, châm biếm trong tiểu thuyết có nhiều cấp độ. Có giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay, có giọng trào lộng, châm chích, có giọng tự trào, có giọng giễu nhại. Nhiều tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc nhờ người kể chuyện “biết đùa”.
Tiểu thuyết “Nhà thờ Đức bà Paris” của V.Hugo đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bằng những sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Thấp thoáng trong đó là giọng điệu hài hước, mỉa mai của tác giả. Mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm đều mang một sự hài hước bi đát. Dưới ngòi bút của tác giả, phó giám mục Claude Frollo một mặt là một người đức độ, uyên bác. Mặt khác, ông vẫn chỉ là một con người sống theo bản năng, không vượt qua được những ham muốn tầm thường: “..Phó giáo chủ thong thả tiến lại gần. Ngay phút cuối cùng này, cô vẫn thấy ông liếc con mắt long lanh dâm dục, ghen tuông và thèm muốn lên tấm thân trần của cô….”
Hiệu quả thẩm mỹ của giọng điệu giễu nhại là khả năng đem đến tính bất ngờ. Ở những trường hợp này, người kể chuyện thường giả vờ nghiêm trang thuật lại mọi chuyện để rồi “lỡm” người đọc bằng những bình luận sắc sảo, chua cay. Giọng điệu giễu nhại không chỉ bộc lộ qua cảm hứng mà thể hiện rõ qua việc cấu tạo ngôn ngữ, cấu trúc câu. Chất giễu nhại làm nổi rõ sự va đập giữa hai mảng sáng tối: một thế giới của văn hóa và một thế giới lộn nhào mọi giá trị, lố bịch và kệch cỡm.
Trong “Nhà thờ Đức bà Paris”, cái hài hước, châm biếm còn thể hiện ở phần cuối của tác phẩm đó là hình ảnh “đám cưới” kết thúc bi kịch của đại úy quý tộc Phoebus tồn tại song song với hình ảnh có thể gọi là “đám cưới” của Quasimodo và Esméralda ở dưới nấm mồ. Đây chính là hai hình ảnh tương phản, mâu thuẫn với nhau nhưng soi sáng cho nhau, qua đó càng làm bật lên hình ảnh của Quasimodo- một con người có vẻ ngoài xấu xí nhưng ẩn chứa bên trong là một tâm hồn cao đẹp, giàu lòng nhân ái. Sự châm biếm, đả kích của tác giả thể hiện tinh tế qua từng câu chữ và chạm đến tâm hồn người đọc một cách nhẹ nhàng nhưng sâu sắc.
Kết luận
“Nhà thờ Đức bà Paris” là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu của nền văn học hiện đại nói chung, của nền văn học Pháp và bản thân tác giả V.Hugo nói riêng. Tìm hiểu về tác phẩm đặt ra những yêu cầu nền tảng về lý luận tiểu thuyết, lịch sử xã hội và khả năng tri nhận triết lí cũng như việc nắm bắt tâm lí nhân vật. Trong đó, thủ pháp nghệ thuật tương phản nổi bật nhất của tác phẩm được chúng tôi tìm hiểu qua hai khía cạnh: nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và giọng điệu tác phẩm. Ở đấy, một mặt, cho ta thấy được quan hệ, tính cách, tâm lí giữa các nhân vật, góp phần thể hiện nổi bật tư tưởng mà nhà văn muốn gửi tới độc giả.
Mặt khác, bằng một giọng điệu đặc biệt V.Hugo đã thể hiện những triết luận sâu sắc, đôi khi là sự lãng mạn nhưng cũng có khi là một nụ cười giễu cợt đầy châm biếm. Chính sự tương phản trong giọng văn ấy, giúp cho người đọc có những cảm nhận đầy màu sắc, đưa chúng ta quay về với một thời Paris, một thời với những lối sống chân thực nhất.
V.Hugo uyên bác, thông minh, khuấy động ngôn từ, sử dụng những thủ pháp nghệ thuật mang âm hưởng chủ nghĩa lãng mạn và văn học dân gian, mang đến cho văn chương những tác phẩm để đời “Nhà thờ Đức bà Paris” là một áng văn tiêu biểu. Bên cạnh đấy, sự đan chéo những yếu tố bi – hài, cái đẹp- cái dị dạng cũng là một nét độc đáo. Cái kết thúc của thiên tình sử vừa bi đát, vừa hài hước. Mỗi nhân vật là một biểu tượng về những trải nghiệm bản thân V.Hugo. Bởi thế, nhân vật của V.Hugo không phải hoàn toàn trừu tượng mà có đời sống hoàn toàn phức tạp. Họ vừa bị tác giả đặt trong tình thế châm biếm, bóc trần đến tận sâu bản chất, nhưng cũng chính từ sự u tối và tuyệt vọng ấy, đã mở ra sự cảm thông sâu sắc cho thế hệ này. Nói cho cùng, đó là một hệ mất mát hoài thai trong một hoàn cảnh mất mát. Hai khía cạnh này thống nhất, tạo lập lẫn nhau làm nên diện mạo của một thời đại với những tương phản. Tựu trung lại, qua đấy, những đặc trưng cơ bản và sâu sắc nhất của thể loại tiểu thuyết đã được biểu hiện tinh tế và triết mỹ trong tác phẩm đòi hỏi quá trình tiếp nhận cao độ này.
Tài liệu tham khảo:
- Nhị Ca dịch, Nhà thờ Đức Bà Paris, NXB Văn học, 1985
- wikipedia. org
(ĐHKHXH&NV)
nguồn: https://ivivi.vn/nha-tho-duc-ba-victor-hugo